Không phải là hành kinh mà là huyết nhiều, cấp, chảy ra như trút gọi là “Băng huyết”: còn huyết ra nhỏ giọt rỉ rả không dứt gọi là “Rong huyết” (lậu huyết).
Nguyên nhân chủ yếu là mạch Xung, mạch Nhâm bị thương tổn. cơ chế bệnh lý có thể qui nạp vào hai loại lớn là hư, thực.
Chứng hư như: Khí hư, Dương hư, Âm hư.
Chứng thực như: Huyết nhiệt, Thấp nhiệt, Huyết ứ, Khí uất.
Cách chữa chủ yếu có 3 phép là:
- Lấp dòng chảy, chỉ huyết, cứu vãn: như dùng Độc sâm thang, Sâm phụ thang.
- Chữa gốc như thanh nhiệt lương huyết với chứng huyết nhiệt, bổ khí nhiếp huyết với chứng khí hư; với khí uất thì điều can thư uất; với khí ứ thì thông huyết tiêu ứ.
- Khôi phục bổ huyết, điều hoà tỳ vị.
Tiết lập Trai nói ” cốt yếu của chữa Băng huyết là điều khí giáng hoả làm cho thăng đề lên; cốt yếu của chữa lậu huyết nên tư âm bổ khí nuôi huyết hoặc kiềm chế hoả”.
Tâm và Tỳ bị bệnh là đều bệnh ở mạch. Tâm không làm chủ được thì Tâm bào lạc thế vào, Tâm hệ là mạch của bào lạc và mệnh môn chủ về kinh nguyệt thai nghén sinh đẻ.
- Do thận hư nên trừ thấp nhiệt dùng Trừ thấp thang.
+ Nếu bệnh đã khỏi nên dùng Hoàng kỳ, Nhân sâm, Đương quy, cam thảo để bổ.
+ Nếu kinh huyết ra không ngừng do hư thì nên bổ tỳ vị khí huyết kiêm thăng đề chỉ khí huyết.
+ Nếu do nhiệt thì kiêm thuốc thanh tâm lương huyết.
+ Nếu có Hoả vô căn bên trong thì hư hàn, bên ngoài thì giả nhiệt nên dùng Thập toàn đại bổ thang gia Phụ tử đỡ rồi thì uống Bát vị hoàn.
- Trường hợp băng huyết đã lâu mà tỳ vị hư, trước hết dùng Phụ tử lý trung thang sau dùng Tế sinh quy tỳ thang hoặc Bổ trung ích khí thang mà càng băng lại thêm ỉa chảy đó là Tiền âm, Hậu âm đều không vững mà thoát xuống. Những thang trên có Sâm Kỳ Lính truật lại có Thăng ma, Sài hồ giúp đề đại thăng đại bổ là tốt.
Nếu người bệnh rất giá lạnh, trọc khí uất trệ ở xung nhâm thì nên cho thăng đề điều khí uất, bình can làm chủ yếu, thêm thuốc tân tán, không nên dùng thuốc thuần nhiệt thuần hàn.
- Huyết băng mà tâm thông nên dùng Thập toàn đại bổ bội Đảng sâm. Bạch truật.
ứ huyết dùng Thất tiếu tán (Bồ hoàng, Ngũ linh chi).
Âm huyết hao dùng Ô tặc hoàn.
Tỳ vị hư nhược dùng Lục quân thang gia Xuyên khung, Đương qui.
- Tỳ vị hãm dùng Bổ trung ích khí thang gia Thược dược.
- Can huyết nhiệt dùng Tứ vật thang gia Sài hồ, Sơn chi.
- Phong nhiệt ở can, giận dữ hại đến can dùng Tiêu dao tán.
- Uất hoả ở Tỳ dùng Quy tỳ thang gia Sài hồ, Sơn chi, Đan bì.
Buồn thương hại tâm bào dùng Tứ quân gia Thăng ma, Sài hồ, Sơn chi.
Tóm lại; Bệnh mới phát theo về nhiệt mà chữa; bệnh lâu theo về hàn mà chữa, nhưng dương mạnh mà âm yếu băng huyết càng thêm mà âm càng hư càng nhiệt – đó là giả nhiệt của âm hư không thể theo về hàn lương làm pháp chứng trị.
- Chữa các chứng về huyết thường dùng thuốc chữa Tỳ vị mà thành công. Mệt nhọc, lao động quá hại tỳ gây băng lậu: dùng Giao ngải thang. Huyết hư nhiệt gây băng lậu, khí hư nóng ẩm không thụ thai dùng ô kê cốt hoàn.
Khí huyết lưỡng hư mà băng lậu dùng Đại ôn kinh thang.
- phụ nữ sau 49 tuổi kinh nguyệt vẫn ra nhiều dùng cầm tân hoàn.
- Băng huyết mãi dùng Thập khôi hoàn hoặc Bi kim tán. Nếu sinh ra không ngừng dùng Liên hồng tán. Huyết ra lâu ngày dùng Bá tử quy phủ hoàn, bụng đau do hư hàn dùng Phục long can tán.
- Hết thảy các chứng hư….dùng Nội cứu hoàn.
Thấp nhiệt do ăn đồ bổ béo quá dùng Giải độc tứ vật thang.
- Phụ nữ già mà băng lậu dùng Phục long can tán. về mùa nắng thì dùng Cầm tâm hoàn, ích nguyên tán gia Bách thảo sương, nếu thấp nhiều thì dùng Trừ thấp thang.
Xem tiếp
Nguyên nhân, điều trị Rong kinh, Rong huyết