HUYỆT: Thượng Tinh
HÌNH ẢNH
TÊN HUYỆT
Huyệt ở phía trên (thượng) đầu, được coi như một vị sao (tinh), vì vậy gọi là ThượngTinh (Trung Y Cương Mục).
TÊN KHÁC
Minh Đường, Qủy Đường, Thần Đường, Tư Đường.
XUẤT XỨ
Giáp Ất Kinh.
VỊ TRÍ
Trên đường dọc giữa đầu, chính giữa đoạn nối huyệt Bá Hội (Đc.20) và Ấn Đường.
ĐẶC TÍNH
Huyệt thứ 23 của mạch Đốc.
TÁC DỤNG
Thanh can, minh mục, thông tỵ, khai khiếu.
CHỦ TRỊ
Trị đầu đau, chảy nước mũi, chảy máu cam, điên cuồng, mắt đỏ, mắt đau.
CHÂM CỨU
Châm luồn kim dưới da sâu 0,2 – 0,5 thốn. Cứu 5 – 10 phút.
GIẢI PHẪU
• Dưới da là cân sọ, dưới cân sọ là xương sọ. Da vùng huyệt chi phối bởi dây thần kinh sọ não số V.
PHỐI HỢP HUYỆT
1.Phối Não Hộ (Đ.17) + Phong Trì (Đ.20) + Tiền Đỉnh (Đc.21) + Tín Hội (Đc.22) trị mặt sưng đỏ, mặt đau (Thiên Kim Phương).
2.Phối Bá Hội (Đc.20) + Thừa Quang (Bq.6) + Tín Hội (Đc.22) trị mũi nghẹt không ngửi thấy mùi (Tư Sinh Kinh).
3.Phối Não Hộ (Đ.17) trị mắt mờ, nhìn không rõ (Tư Sinh Kinh).
4.Phối Can Du (Bq.18) trị khóe mắt đau, đỏ, khóe mắt ngứa (Tư Sinh Kinh).
5.Phối Phong Trì (Đ.20) + Thiên Trụ (Bq.10) trị chóng mặt (Châm Cứu Tụ Anh).
6.Phối Hãm Cốc (Vi.43) + Khâu Khư (Đ.40) trị sốt rét (Châm Cứu Đại Thành).
7.Phối Bá Hội (Đc.20) + Hợp Cốc (Đtr.4) trị đầu nhức (Châm Cứu Đại Thành).
8.Phối Nhân Trung (Đc.26) + Phong Phủ (Đc.16) trị mũi chảy nước trong (Châm Cứu Đại Thành).
9.Phối Hòa Liêu (Đtr.19) + Nghênh Hương (Đtr.20) + Ngũ Xứ (Bq.5) trị mũi nghẹt không ngửi thấy mùi thơm (Châm Cứu Đại Thành).
10.Phối Bá Lao + Hợp Cốc (Đtr.4) + Phong Phủ (Đc.16) trị chảy máu cam không cầm (Châm Cứu Đại Thành).
10.Phối Bá Hội (Đc.20) + Thần Đình (Đc.24) + Tiền Đỉnh (Đc.21) + Tín Hội (Đc.22) trị mắt sưng đỏ, mắt đau (Nho Môn Sự Thân).
12.Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Khúc Sai (Bq.4) + Phong Môn (Bq.12) trị tỵ uyên [xoang mũi viêm] (Thần Cứu Kinh Luân).
13.Phối Bá Hội (Đc.20) + Tiền Đỉnh (Đc.21) đều châm ra máu, trị quáng gà (Y Học Cương Mục).
14.Phối Á Môn (Đc.15) + Chiếu Hải (Th.6) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Nội Đình (Vi.44) + Phong Phủ (Đc.16) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị chảy máu cam (Y Học Cương Mục).
15.Phối Bá Hội (Đc.20) + Địa Ngũ Hội (Đ.42) + Quang Minh (Đ.37) + Thần Đình (Đc.24) + Tiền Đỉnh (Đc.21) + Tín Hội (Đc.22) trị mắt đột nhiên sưng đau (Y Học Cương Mục).
16.Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị tỵ uyên [xoang mũi viêm] (Tục Danh Y Loại Án).
17.Phối Cự Liêu (Vi.3) + Hoàn Cốt (Đ.12) + Phong Trì (Đ.20) + Thiên Dũ (Ttu.16) + Y Hy (Bq.45) trị đầu mặt sưng phù (Châm Cứu Toàn Thư).
18.Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Nghênh Hương (Bq.20) + Tố Liêu (Đc.25) trị mũi viêm, mũi chảy máu (Châm Cứu Học Giản Biên).
19.Phối Bá Hội (Đc.20) + Hợp Cốc (Đtr.4) trị đầu đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).
20.Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Thái Xung (C.3) trị mũi nghẹt, trĩ mũi, xoang viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
21.Phối Tố Liêu (Đc.15) trị chảy máu cam (Châm Cứu Học Thượng Hải).
22.Phối Nghênh Hương (Đtr.20) + Tố Liêu (Đc.15) trị chảy nước mũi trong (Châm Cứu Học Thượng Hải).
23.Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Liệt Khuyết (P.7) + Nghênh Hương (Đtr.20) trị mũi sưng, có nhọt (Trung Hoa Châm Cứu Học).
24.Phối A Thị Huyệt + Đầu Duy (Vi.8) + Hợp Cốc (Đtr.4) trị trước đầu đau (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).
GHI CHÚ
• Không nên châm vào xương. Không cứu nhiều vì có thể làm cho Hỏa bốc lên đầu gây mờ mắt (Minh Đường).
THAM KHẢO
• Thiên Thích Ngược ghi: “Bệnh ngược… nếu trước đầu nhức, chân đi khó khăn: nên châm trên đầu (huyệt Thượng Tinh và Bá Hội) với 2 bên trán, khoảng giữa 2 lông mày (huyệt Toàn Trúc) trước, châm ra máu…” (Tố Vấn 36, 25). “Mặt mắt sưng phù: dùng huyệt Thượng Tinh là chính. Trước hết châm huyệt Y Hy (Bq.45), sau đó châm Thiên Dũ (Ttu.16), Phong Trì (Đ.20)” (Giáp Ất Kinh). “Miệng mũi ra máu không cầm gọi là chứng não nục, cứu huyệt Thượng Tinh (Đ.23) 50 tráng… (Bị Cấp Thiên Kim Phương). “Nếu là đầu phong cùng mắt đau, châm huyệt Thượng Tinh ắt không sai” (Ngọc Long Ca). “Chảy máu cam: cứu huyệt Thượng Tinh 1 tráng là ngưng, mỗi ngày cứu 7 tráng, nếu thiếu thì không thể dứt căn được” (Loại Kinh Đồ Dực). “Chảy máu cam: huyệt Thượng Tinh (Đc.23), cứu một tráng thì hết chảy máu, cứu 49 tráng, nếu ít quá sẽ không hết dứt bệnh” (Thần Cứu Kinh Luân). “Không nên cứu nhiều, nếu cứu nhiều sẽ làm cho khí xung ngược lên làm cho mắt mờ” (Đồng Nhân Du Huyệt Châm Cứu Đồ Kinh).