Điểm chính trong chẩn đoán
Xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau ở dọc tĩnh mạch nông.
Thường có tiền sử tiêm tĩnh mạch gần đây hoặc chấn thương. Không có dấu hiệu sưng ở chân.
Nhận định chung
Viêm tĩnh mạch huyết khối nông có thể xuất hiện tự phát, như ở phụ nữ có thai hoặc trong thời kỳ chu sản hoặc ở người có giãn tĩnh mạch hoặc viêm mạch tạo huyết khối tắc nghẽn, nó có thể phối hợp với chấn thương, như trong trường hợp đánh mạnh vào chân hoặc sau khi điều trị tĩnh mạch bằng những dung dịch kích thích. Nó có thể là biểu hiện của một ung thư ở bụng như là carcinoma ở tuyến tụy và có thể là một biểu hiện sớm. Thường bị nhất là tĩnh mạch hiển dài. Viêm tĩnh mạch huyết khối ở tĩnh mạch nông có thể phối hợp với huyết khối tĩnh mạch sâu ở khoảng 20%. Các trường hợp nghẽn mạch phổi khá hiếm
Thông tĩnh mạch bằng ống thông chất dẻo để truyền tĩnh mạch nông ở tay một thời gian ngắn bây giờ là cách dùng thường xuyên, ống thông được kiểm tra hàng ngày tránh những dấu hiệu của nhiễm trùng tại chỗ. Nó cũng nên bỏ đi nếu có phản ứng tại chỗ ở tĩnh mạch. Huyết khối trầm trọng hoặc biến chứng nhiễm khuẩn huyết có thể xuất hiện nếu những điều trên không được tuân theo. Kim bằng thép truyền tĩnh mạch có cánh cố định (kim bướm) ít gây viêm tĩnh mạch và nhiễm khuẩn hơn là ống thông chất dẻo, nhưng chỉ giữ lưu một thời gian ngắn hơn.
Lâm sàng
Bệnh nhân thường đau âm ỉ ở vùng tĩnh mạch bị bệnh. Dấu hiệu tại chỗ bao gốm xơ cứng, đỏ, và nhạy cảm đau dọc theo tĩnh mạch. Tiến trình này có thể tại chỗ, hoặc có thể ở hầu hết tĩnh mạch hiển dài và các nhánh của nó. Phản ứng viêm nói chung kéo dài dưới 1 – 2 tuần; nhưng mầm bệnh có thể còn ở một thời kỳ dài hơn. Phù ở chân và nhậy cảm đau ở bắp chân sâu không có trừ khi có viêm tĩnh mạch huyết khối đi kèm. Sốt cao, rét run gợi ý bị viêm tĩnh mạch nhiễm trùng huyết và thường có khi viêm tĩnh mạch là thứ phát sau khi đặt ống thông tĩnh mạch mà không chú ý.
Chẩn đoán phân biệt
Đưừng viền rõ ràng hơn của các tổn thương và phân bố dọc theo tĩnh mạch nông giúp cho phân biệt viêm tĩnh mạch nông với viêm mô tế bào, ban đỏ dạng nút, ban đỏ cứng, viêm mô mỡ dưới da, và viêm mô xơ. Viêm mạch bạch huyết và viêm tĩnh mạch huyết khôi sâu có thể cũng phải xem xét.
Điều trị
Nếu tiến triển của bệnh chỉ ở tại chỗ và không gần điểm nối đùi – hiển thì làm nóng tại chỗ và nghỉ tại giường với chân nâng cao thường có hiệu quả làm giảm huyết khối. Thuốc chống viêm không steroid làm giảm các triệu chứng.
Nếu tiến triển bệnh lan rất rộng hoặc tiến triển có xu hướng tới điểm nối đùi – hiển, hoặc nếu có ở gốc của điểm nối đùi – hiển lúc đầu tiên, thì có chỉ định thắt và tách tĩnh mạch hiển ở điểm nối đùi – hiển. Tiến triển của viêm thường giảm nhiều sau khi thực hiện biện pháp này, dù vậy cắt bỏ đoạn tĩnh mạch có thể có kết quả hồi phục nhanh hơn.
Thuốc chống đông thường không phải chỉ định trừ khi bệnh tiến triển nhanh. Nó được chỉ định khi lan rộng tới cả hệ tĩnh mặch sâu. Viêm tĩnh mạch huyết khối nhiễm trùng huyết đòi hỏi phải cắt các tĩnh mạch và các chỗ nối với những tĩnh mạch không viêm để điều trị nhiễm khuẩn huyết. Tụ cầu là nguyên nhân thường gặp nhất, và nên dùng kháng sinh chống tụ cầu dù chưa có kết quả cây máu. Nếu cấy máu dương tính, điều trị nên tiếp tục trong 7 – 10 ngày, hoặc cho 6 tuần nếu biến chứng viêm nội tâm mạc chưa được loại trừ.
Tiên lượng
Diễn biến nói chung nhẹ và đơn giản, và tiên lượng phụ thuộc vào cơ sở tiến triển của sinh lý bệnh. Viêm tĩnh mạch ở tĩnh mạch hiển có thể lan đến tĩnh mạch sâu, mà nó có thể gây ra nghẽn mạch phổi.